Phụ nữ bị tiểu đường nếu mang thai hoặc người mang thai không phát hiện sớm được bệnh tiểu đường để kiểm soát đường huyết thì quá trình thai nghén sẽ có nhiều rắc rối.
Hình minh họa |
Các thống kê cho thấy, tỷ lệ dị tật ở nhóm bệnh nhân tiểu đường cao hơn so với người bình thường; thường gặp là khiếm khuyết ống thần kinh, có đuôi, không có não, nứt đốt sống, não úng thủy hoặc các dị tật về tim, thận... Những dị tật này thường xuất hiện ở tuần thai thứ 5-8. Bệnh cũng có thể gây nhiều rủi ro cho mẹ và thai trong và sau đẻ.
Vậy những thai phụ bị tiểu đường nên đẻ khi nào và đường nào là tốt nhất? Theo các bác sĩ, nếu không có biến chứng, nên sinh vào tuần thứ 38-41 để phòng ngừa một số biến chứng do đẻ sớm. Tuy nhiên, có thể cho sinh trước tuần thứ 38 nếu phát hiện thai to. Nếu quyết định cho sinh sớm trước tuần 37 thì phải xem xét đến sự phát triển phổi của thai nhi. Để giảm tối đa nguy cơ bị hội chứng suy hô hấp do phổi chưa trưởng thành, nên trì hoãn cuộc đẻ (nếu có thể)tới tuần 38-41 và hạn chế việc mổ đẻ.
Nếu dự đoán được là phổi của thai đã trưởng thành thì việc chọn lựa cho sinh đường nào cũng giống sản phụ bình thường. Nếu khám lâm sàng và siêu âm thấy thai to (lớn hơn 4.200 g) thì nên mổ để tránh nguy cơ ngạt, trật khớp vai hoặc chấn thương cho trẻ khi sinh đường dưới. Một cách khác là cho đẻ chỉ huy, tức truyền thuốc kích thích chuyển dạ và cho sinh đường dưới vì các nguy cơ cho người mẹ sẽ thấp hơn. Trong khi đang chuyển dạ, vẫn cần tiếp tục theo dõi tim thai và điều chỉnh đường máu. Đường máu người mẹ trong cuộc đẻ trên 8,3 mmol/l có thể song hành với tình trạng thai bị thiếu ôxy.
Trong cuộc sinh, một số nguy cơ có thể xảy ra: chấn thương, trật khớp vai (nếu sinh đường dưới và thai nhi to), suy tim thai do cuộc đẻ kéo dài, đường máu của người mẹ cao, người mẹ bị nhiễm toan xê tôn... Trong tuần đầu sau đẻ, trẻ có thể gặp các tai biến:
Suy hô hấp cấp: Sản phụ không được kiểm soát đường máu tốt thì con có nguy cơ cao bị suy hô hấp cấp do phổi chưa phát triển hoàn chỉnh, bệnh thường nặng và tỷ lệ tử vong khá cao. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc suy hô hấp cấp đã giảm từ 24% xuống 5% do các bà mẹ được kiểm soát đường máu tốt hơn, đa số trẻ được sinh đúng ngày và các xét nghiệm nước ối cho biết sự phát triển của phổi trước khi sinh, giúp các bác sĩ có biện pháp điều chỉnh hiệu quả. Trẻ bị suy hô hấp cấp thường thở rất nhanh trên 60 lần/phút, khò khè, co kéo lồng ngực và cả bụng, tím tái... Việc điều trị khá phức tạp nhưng ngày nay đã có một số phương pháp đạt kết quả tốt.
Hạ đường máu: Trẻ sơ sinh có thể bị hạ đường máu trong vòng 48 giờ đầu sau đẻ, đường máu có khi thấp dưới 1,7 mmol/l (ở người lớn thì được coi là hạ đường máu nếu đường máu dưới 2,8 mmol/l). Nguyên nhân là do tình trạng tăng insulin máu vẫn tồn tại sau đẻ. Thường đứa trẻ hay bị hôn mê hơn là kích thích và hạ đường máu có thể phối hợp với ngừng thở hoặc thở nhanh, tím, hoặc co giật. Một số đứa trẻ bị hạ đường máu nhưng vẫn có vẻ khỏe mạnh. Phòng ngừa hạ đường máu bằng cách cho uống hoặc cho qua sonde dạ dày dung dịch đường glucose sau đẻ khoảng 1 giờ, nếu biện pháp này không thành công thì cho truyền tĩnh mạch glucose.
Một số rối loạn khác có thể gặp ở những trẻ sơ sinh có mẹ bị tiểu đường là hạ canxi máu, tăng bilirubin máu (gây vàng da), đa hồng cầu và ăn kém. Các biến chứng này đôi khi có liên quan với tình trạng tăng đường máu, tăng insulin máu của thai và có thể với cả các giai đoạn bị thiếu ôxy. Nếu kiểm soát tốt đường máu của mẹ thì sẽ làm giảm tỷ lệ các biến chứng này.
Vậy những thai phụ bị tiểu đường nên đẻ khi nào và đường nào là tốt nhất? Theo các bác sĩ, nếu không có biến chứng, nên sinh vào tuần thứ 38-41 để phòng ngừa một số biến chứng do đẻ sớm. Tuy nhiên, có thể cho sinh trước tuần thứ 38 nếu phát hiện thai to. Nếu quyết định cho sinh sớm trước tuần 37 thì phải xem xét đến sự phát triển phổi của thai nhi. Để giảm tối đa nguy cơ bị hội chứng suy hô hấp do phổi chưa trưởng thành, nên trì hoãn cuộc đẻ (nếu có thể)tới tuần 38-41 và hạn chế việc mổ đẻ.
Nếu dự đoán được là phổi của thai đã trưởng thành thì việc chọn lựa cho sinh đường nào cũng giống sản phụ bình thường. Nếu khám lâm sàng và siêu âm thấy thai to (lớn hơn 4.200 g) thì nên mổ để tránh nguy cơ ngạt, trật khớp vai hoặc chấn thương cho trẻ khi sinh đường dưới. Một cách khác là cho đẻ chỉ huy, tức truyền thuốc kích thích chuyển dạ và cho sinh đường dưới vì các nguy cơ cho người mẹ sẽ thấp hơn. Trong khi đang chuyển dạ, vẫn cần tiếp tục theo dõi tim thai và điều chỉnh đường máu. Đường máu người mẹ trong cuộc đẻ trên 8,3 mmol/l có thể song hành với tình trạng thai bị thiếu ôxy.
Trong cuộc sinh, một số nguy cơ có thể xảy ra: chấn thương, trật khớp vai (nếu sinh đường dưới và thai nhi to), suy tim thai do cuộc đẻ kéo dài, đường máu của người mẹ cao, người mẹ bị nhiễm toan xê tôn... Trong tuần đầu sau đẻ, trẻ có thể gặp các tai biến:
Suy hô hấp cấp: Sản phụ không được kiểm soát đường máu tốt thì con có nguy cơ cao bị suy hô hấp cấp do phổi chưa phát triển hoàn chỉnh, bệnh thường nặng và tỷ lệ tử vong khá cao. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc suy hô hấp cấp đã giảm từ 24% xuống 5% do các bà mẹ được kiểm soát đường máu tốt hơn, đa số trẻ được sinh đúng ngày và các xét nghiệm nước ối cho biết sự phát triển của phổi trước khi sinh, giúp các bác sĩ có biện pháp điều chỉnh hiệu quả. Trẻ bị suy hô hấp cấp thường thở rất nhanh trên 60 lần/phút, khò khè, co kéo lồng ngực và cả bụng, tím tái... Việc điều trị khá phức tạp nhưng ngày nay đã có một số phương pháp đạt kết quả tốt.
Hạ đường máu: Trẻ sơ sinh có thể bị hạ đường máu trong vòng 48 giờ đầu sau đẻ, đường máu có khi thấp dưới 1,7 mmol/l (ở người lớn thì được coi là hạ đường máu nếu đường máu dưới 2,8 mmol/l). Nguyên nhân là do tình trạng tăng insulin máu vẫn tồn tại sau đẻ. Thường đứa trẻ hay bị hôn mê hơn là kích thích và hạ đường máu có thể phối hợp với ngừng thở hoặc thở nhanh, tím, hoặc co giật. Một số đứa trẻ bị hạ đường máu nhưng vẫn có vẻ khỏe mạnh. Phòng ngừa hạ đường máu bằng cách cho uống hoặc cho qua sonde dạ dày dung dịch đường glucose sau đẻ khoảng 1 giờ, nếu biện pháp này không thành công thì cho truyền tĩnh mạch glucose.
Một số rối loạn khác có thể gặp ở những trẻ sơ sinh có mẹ bị tiểu đường là hạ canxi máu, tăng bilirubin máu (gây vàng da), đa hồng cầu và ăn kém. Các biến chứng này đôi khi có liên quan với tình trạng tăng đường máu, tăng insulin máu của thai và có thể với cả các giai đoạn bị thiếu ôxy. Nếu kiểm soát tốt đường máu của mẹ thì sẽ làm giảm tỷ lệ các biến chứng này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét